1.Đại cương.

Bệnh bạch biến là bệnh lí rối loạn sắc tố hay gặp, chẩn đoán bệnh ở giai đoạn sớm, phân biệt với các bệnh giảm sắc tố khác là một thách thức. Bên cạnh đó, việc đánh giá giai đoạn bệnh hoạt động hay ổn định có tầm quan trọng rất nhiều trong lựa chọn phương pháp điều trị, đặc biệt là trước khi tiến hành phẫu thuật do phẫu thuật ở lứa tuổi trẻ có nguy cơ thất bại cao ở giai đoạn bệnh chưa ổn định.

Gần đây đã có các báo cáo cho thấy rằng dermoscopy có thể hữu ích trong chẩn đoán,đánh giá giai đoạn bệnh (ổn định, giai đoạn tiến triển, giai đoạn lấy lại sắc tố. Bài viết này đề cập tóm lược một số nghiên cứu có giá trị liên quan đến thực hành dermscopy trong bệnh bạch biến.

2. Vai trò của Dermoscopy trong bệnh bạch biến.

Nghiên cứu của Sarvesh và cộng sự (2014) trên 30 bệnh nhân, mục đích đánh giá vai trò của dermosscopy trong chẩn đoán bệnh bạch biến, phân tích mối liên quan giữa hình ảnh dermosocopy và hình ảnh mô bệnh học trong bạch biến. Kết quả ghi nhận, khi soi da bằng ánh sáng phân cực, mạng lưới sắc tố giảm 12/30(40%) bệnh nhân, biến mất 9/30(30%), thay đổi cấu trúc 6/30(20%), 2(6,7%) tăng sắc tố quanh nang lông và 1 tăng sắc tố quanh tổn thương. Hình ảnh phát sáng trắng lan toả khi sử dụng ánh sáng cực tím gặp trong 27/30(90%), giải phẫu bệnh melanocyte giảm hoặc biến mất chỉ gặp 12/30(40%) các trường hợp. Kết quả cho thấy các hình ảnh đề cập ở trên kết hợp với lâm sàng giúp ích cho chẩn đoán bệnh bạch biến.

Nghiên cứu đăng trên tạp chí da liễu quốc tế, tiến hành trên 60 bệnh nhân Ấn Độ, bệnh nhân phân loại giai đoạn bệnh dựa trên lâm sàng với mức độ ổn định, bệnh tiến tiến triển và sau điều trị. Do thiếu các đồng thuận về xác định tình trạng bạch biến ổn định trên lâm sàng, tiêu chí bệnh ổn định được xác định theo tiêu chuẩn của Hiệp hội phẫu thuật Ấn Độ là không xuất hiện tổn thương mới, không có tổn thương tiến triển, và không có hiện tượng Koebner trong 1 năm qua. Các bệnh nhân được tiến hành chụp phân tích hình ảnh qua dermoscopy, thu thập các dấu hiệu quan sát được. Bệnh hoạt động 33, ổn định 10, ổn định giai đoạn lấy lại sắc tố 17 bệnh nhân

Kết quả nghiên cứu được đề cập trong bảng sau:

Dấu hiệu trên dermoscopy Số trường hợp Bệnh tiến triển Bệnh ổn định Bệnh ổn định và lấy lại sắc tố
Sắc tố quanh nang lông 38(63.3%) 29(76.3%) 6(15.8%) 3(7.9%)
Mất sắc tố quanh nang lông 22(36.7%) 3(7.9%) 19(86.4%)
Thay đổi mạng lưới sắc tố 35(58.3%) 32(91.4%) 3(8.6%)
Mất sắc tố  lông 14(23.3%) 4(28.6%) 10(71.4%) 10(71.4%)

Các hình ảnh khác được ghi nhận

Hình ảnh dermoscopy Số lượng bệnh nhân Tình trạng bệnh
hình ảnh vụ sao nổ(starburst) 10(16,7%) Giai đoạn tiến triển
Dấu hiệu đuôi sao chổi(comet tail) 13(21,7%) Giai đoạn tiến triển
Hiện tượng micro-Koebner 5(8,3%) Giai đoạn tiến triển
Hình ảnh các chấm màu trắng nhỏ tương đối đồng đều (tapioca sago) Giai đoạn tiến triển
Tăng sắc tố bờ tổn thương 17(28,3%) Giai đoạn ổn định và lấy lại sắc tố
Đỏ da vùng trung tâm và quanh tổn thương kèm theo giãn mạch 10(16,7%) Giai đoạn ổn định và lấy lại sắc tố

 

Hình ảnh sắc tố quanh nang lông gặp tỷ lệ cao hơn ở bạch biến thể không ổn định/hoạt động, tuy nhiên cũng gặp trong bệnh ổn định lấy lại sắc tố. Trong khi đó, mất sắc tố quanh nang lông hay gặp trong bạch biến ổn định. Bệnh nhân được điều, bệnh ổn định, hình ảnh đặc trưng bởi tăng sắc tố quanh tổn thương, và đỏ da giãn mạch trong và quanh tổn thương.

Nghiên cứu thực hiện trên 78 bệnh nhân bạch biến, phân loại lâm sàng về mức độ hoạt động của bệnh dựa trên các tiêu chí do hiệu hội da liễu và bệnh phong ấn độ đưa ra. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các triệu chứng chỉ ghi nhận được ở giai đoạn bệnh không ổn định như hình ảnh vụ nổ sao, hình ảnh đuôi sao chổi, các chấm màu trắng nhỏ. Lông trắng gặp nhiều hơn ở các trường hợp bệnh ổn định. Tăng sắc tố quanh tổn thương, đỏ da trong và xung quanh tổn thương, giãn mạch là hình ảnh đặc trưng cho đáp ứng điều trị của bệnh nhân. Nghiên cứu cho thấy dấu hiệu thay đổi sắc tố quanh nang lông là hình thái quan trọng trong đánh giá độ hoạt động của bệnh, trong đó mất sắc tố quanh nang lông  gợi ý bệnh ổn định, còn sắc tố quanh nang lông thể hiện bệnh giai đoạn không ổn định.

Một nghiên cứu khác thực hiện trên 50 bệnh nhân cũng cho kết quả tương tự.

Năm 2019, một nghiên cứu thực hiện với quy mô lớn hơn, mục đích đánh giá các hình ảnh có giá trị tiên lượng chẩn đoán trên dermscopy và đưa ra điểm số “cut-off” cho bệnh ở giai đoạn ổn định. Nghiên cứu được thực hiện trên 85 bệnh nhân với 131 tổn thương, sử dụng chẩn Wood và lâm sàng làm tiêu chuẩn đánh giá bệnh ổn định. Trên dermoscopy đánh giá tổn thương thông qua các tiêu chí BPLeFoSK bao gồm bờ viền (Border), mạng lưới sắc tố vùng tổn thương (Pigment network within the patch), tăng sắc tố quanh thương tổn (Perilesional hyperpigmentation), tăng sắc tố quanh nang lông (Perifollicular hyperpigmentation), tổn thương dạng Satellite(các cấu trúc nhỏ màu trắng phân bố quanh tổn thương chính) và dấu hiệu Micro-Koebner. Điểm số để đánh giá được tính theo bảng sau:

Kết quả nghiên cứu điểm “cut-off”, đánh giá độ nhạy và độ đặc hiệu so với đèn Wood

Đường cong ROC: diện tích dưới đường cong=0,95(95%CI=0,9-0,99) cho thấy độ nhạy cao của phương pháp

Đánh giá điểm cut-off kết quả ³1,5 được cho là bệnh ổn định với độ nhạy 90% và độ đặc hiệu 94,4% so với đèn Wood.

3. Kết luận

Thực hành dermoscopy trong bạch biến là một trong những bước quan trọng để đánh giá giai đoạn bệnh. Các hình ảnh tăng sắc tố vùng rìa thương tổn, thay đổi mạng lưới sắc tố mạng tăng sắc tố quanh nang lông, thay đổi màu sắc nang lông, hình ảnh vụ nổ sao, hình ảnh đuôi sao chổi, hiện tượng micro-Koebner, các chấm trắng tròn đồng đều, giãn mạch, đỏ da vùng thương tổn là các dấu hiệu cần được tìm kiếm trong khi quan sát dưới dermscopy. Chỉ số BPLeFoSK³1,5 cân nhắc bệnh ở giai đoạn ổn định.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Kumar Jha A., Sonthalia S., Lallas A. và cộng sự. (2018). Dermoscopy in vitiligo: diagnosis and beyond. Int J Dermatol57(1), 50–54.

2.Dermoscopy as an evolving tool to assess vitiligo activity – Journal of the American Academy of Dermatology.

3. Thatte S.S. và Khopkar U.S. (2014). The utility of dermoscopy in the diagnosis of evolving lesions of vitiligo. Indian Journal of Dermatology, Venereology, and Leprology80(6), 505.

4. Nirmal B., Antonisamy B., Peter C.D. và cộng sự. (2019). Cross-sectional study of dermatoscopic findings in relation to activity in vitiligo: BPLeFoSK criteria for stability. Journal of Cutaneous and Aesthetic Surgery12(1), 36.

5. G. Purnima, Dermoscopy – A tool to Assess Stability in Vitiligo – IJCMR, 2017

Bài viết: BSNT Nguyễn Thị Mai

Đăng bài: Phòng CTXH

Nguồn: https://dalieu.vn/vai-tro-cua-dermoscopy-trong-benh-bach-bien-d3201.html

Tin Liên Quan