Bệnh bạch biến là một loại bệnh da liễu thường gặp mà trong đó các tế bào sắc tố da bị phá hủy từ đó làm thay đổi màu da. Bệnh biểu hiện bởi những dát, mảng giảm sắc tố so với vùng da xung quanh, không ngứa, không đóng vảy, giới hạn rõ. Đây là bệnh lành tính, không lây, và có ảnh hưởng nhiều về mặt thẩm mỹ.

Tại Việt nam chưa có thống kê chính thức về tỷ lệ mắc bệnh. Theo thống kê có 1% dân số Hoa Kì mắc bệnh bạch biến.

Bạch biến chia làm 2 thể chính: thể khu trú và thể lan tỏa

Thể khu trú:

Bạch biến từng điểm (Focal vitiligo):một hoặc nhiều dát giảm sắc tố ở một vị trí
Bạch biến thể đoạn (Segmental vitiligo): tổn thương là một hoặc nhiều dát giảm sắc tố, phân bố theo đường đi của dây thần kinh, bệnh chủ yếu gặp ở trẻ em
Thể niêm mạc (Mucosal vitiligo): chỉ có tổn thương ở niêm mạc
Thể lan tỏa:

Thể ở các cực (Acrofacial vitiligo): tổn thương ở các ngón tay, chân và quanh các hốc tự nhiên ở măt
Thể thông thường (Vitiligo vulgaris): các mảng giảm sắc tố riêng rẽ và phân bố rộng rãi
Thể hỗn hợp ( Mixed vitiligo): tổn thương bao gồm cả ở các cực và rải rác toàn thân
Bạch biến toàn thể ( universal vitiligo): giảm sắc tố toàn bộ hoặc gần như toàn bộ cơ thể, thường phối hợp với các hội chứng nội tiết
Vì nguyên nhân chính xác gây bệnh hiện nay chưa biết rõ nên chưa có biện pháp điều trị đặc hiệu cho bệnh bạch biến, hiện nay có rất nhiều phương pháp điều trị triệu chứng bệnh, đáp ứng tùy thuộc vào từng bệnh nhân.

Điều trị bạch biến không ổn định( bệnh còn đang tiến triển)

Corticoid toàn thân
Betamethason hoặc dexamethason 5 mg trong 2 ngày liên tiếp/tuần trong 4 -6 tháng, liệu pháp này làm ngừng tiến triển bệnh ở trên 90% bệnh nhân
Phối hợp điều trị với liệu pháp ánh sáng Sau khi bệnh ngừng tiến triển
Methotrexat (MTX)
Sử dụng MTX 10mg/tuần trong 24 tuần có hiệu quả tương đương dexamethason trong kiểm soát tiến triển bệnh.
Minocyclin: Sử dụng minocyclin 100mg/ngày/6 tháng cho kết quả tương đương betamethasone.
Thuốc Ginkgo biloba làm giảm tiến triển của bệnh với liều 40 mg x 3 lần/ngày trong 6 tháng theo nghiên cứu của Parsad.
Một số thuốc ức chế miễn dịch khác như cyclophosphamid, cyclosporin… không chứng minh được vai trò trong kiểm soát bệnh.

Điều trị bạch biến ổn định( bệnh ngừng tiến triển trong vòng 1 năm)

Corticoid tại chỗ
Sử dụng corticoid tại chỗ loại mạnh- loại II theo phân loại của Mỹ (betamethasone valerat, clobetasol) bôi 1 lần/ngày, không quá 3 tháng. Có thể phối hợp với liệu pháp ánh sáng cho hiệu quả cao

Thuốc ức chế calcineurin
Theo một vài nghiên cứu, thuốc ức chế calcineurin có hiệu quả tương đươngvới clobetasol 0.05% và ít tác dụng phụ hơn. Do đó, thước được ưu tiên điều trị cho tổn thương vùng mặt, cổ để hạn chế tác dụng phụ của corticoid

Cách dùng: Bôi 2 lần/ngày trong 6 tháng, nếu đáp ứng có thể dùng trên 12 tháng. Với tổn thương ở đầu chi có thể băng bịt qua đêm.

Tỉ lệ tái phát sau dừng thuốc khoảng 15% sau 6 tháng, do đó cần bôi duy trì để hạn chế sự tái phát.

Phối hợp bôi tại chỗ thuốc ức chế calcineuron với điều trị với ánh sáng đặc biệt là laser excimer cho hiệu quả điều trị cao.

Thuốc calcipotriol
Calcipotriol không được khuyến cáo sử dụng đơn độc nhưng dùng kết hợp với corticoid làm tăng tác dụng của thuốc

Chiếu UVB dải hẹp (NB-UVB)
Tia UVB dải hẹp hiện nay là đại diện cho liệu pháp điều trị ánh sáng đối với bạch biến không hoạt động. Liệu pháp này có thể làm phục hồi sắc tố > 75% ở trên 70% bệnh nhân và tỉ lệ tái phát thấp hơn các phương pháp điều trị tại chỗ khác.

Phác đồ điều trị: chiếu 2-3 lần/tuần trong ít nhất 3 tháng, sau đó có thể kéo dài đến 1 năm, ngừng đt nếu sau 3 tháng không có tác dụng hoặc phục hồi sắc tố <25% sau 6 tháng.

Tác dụng phụ thường gặp là đỏ da, ngứa, sạm da

Có thể phối hợp NB-UVB với corticoid bôi, tacrolimus bôi và các thuốc chống oxy hóa để tăng hiệu quả điều trị bệnh

Hình ảnh trước điều trị và sau  khi chiếu NB-UVB 25 buổi của một bệnh nhân nam 35 tuổi, bệnh 6 tháng, đã điều trị thất bại với bôi corticoid 2 tháng

  • Gồm laser excimer (bước sóng 308nm) và ánh sáng excimer. So với NB-UVB, excimer có hiệu quả hơn, đặc biệt bạch biến đoạn. Eximer cho tác dụng nhanh, chỉ sau vài lần chiếu đã có thể đã thấy phục hồi sắc tố, tác dụng này ổn định, không tái phát trong nhiều nămExcimer
  • Phẫu thuật: nhằm thay thế tế bào hắc tố từ một vị trí hiến tặng tự thân có sắc tố bình thường. Tất cả các phương pháp đòi hỏi vô trùng nghiêm ngăt.
  • Ghép da
  • Ghép da từng điểm
  • Ghép da bọng nước.
  • Ghép da mỏng: Tỉ lệ phục hồi sắc tố cao nhất , 88% phục hồi > 75%.
  • Ghép tế bào
  • Ghép tế bào không qua nuôi cấy.
  • Ghép tế bào qua nuôi cấy
  • Làm mất sắc tố

Ở những bệnh nhân có bạch biến rộng và khó điều trị , làm mất sắc tố các vùng còn lại thông qua phương pháp hóa học hoặc vật lý có thể có tác dụng về mặt thẫm mỹ. Esteethyl monobenzone (MBEH) là dẫn xuất hydroquinone (HQ). Không giống như HQ, MBEH gây ra sự mất sắc tố gần như không thể hồi phục.
Các bệnh nhân có da với typ da sẫm màu( typ V –VI theo Fitzpatrick), sự tương phản giữa màu da và tổn thương bạch biến quá rõ ràng, có thể là ứng cử viên tốt nhất để sử dụng liệu pháp này. Bên cạnh đó, các bệnh nhân có typ da sáng màu ( I và II) có thể đạt được hiệu quả thẫm mỹ tốt hơn khi sử dụng các chất làm mất sắc tố so với các thuốc làm tái nhiễm sắc ở vùng tổn thương. Cách dùng: MBEH 20% bôi vào vùng da có sắc tố 2-3 lần/ngày. Tiếp xúc kéo dàiánh nắng mặt trời nên tránh trong quá trình điều trị , các loại kem chống nắng phù hợp nên được sử dụng. Mất sắc tố thường thuđược sau 1-4 tháng điều trị . Sau 4 tháng điều trị không thành công, nên ngưng dùng thuốc.
Khi đạt được mức độ mất sắc tố mong muốn , monobenzone nên được dùng duy trì 2 lần /tuần
Laser ruby 755 nm Q-switched có thể được sử dụng đơn lẻ hoặc kếthợp với methoxyphenol để gây mất sắc tố, dựa vào cơ chế phá hủy sắc tố và các tế bào chứa sắc tố

Khuyến cáo của chuyên gia: các chất làm mất sắc tố
–  Chỉ những bệnh nhân bạch biến biến có diện tích tổn thương lớn mới được sử dụng phương ppháp này và chỉ sau khi thất bại với các liệu pháp khác. Bệnh nhân cần được giải thích rằng monobenzone là một chất làmmất sắc tố có hiệu quả và không phải là chất làm trắng da thẩm mỹ.
–  Làm mất sắc tố cũng có thể bằng cách sử dụng laser ruby Q-switched, đơn độc hoặckết hợp với methoxyphenol.

  • Các phương pháp điều trị khác nhằm làm giảm sự tương phản giữa da bệnh và da lành:

trang điểm, xăm thẩm mĩ, kết hợp với liệu pháp tâm lí.

  • Sử dụng kem chống nắng

Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng không có sự gia tăng nguy cơ ung thư ở bệnh nhân bạch biến so với người bình thường. Sử dụng kem chống nắng ở bệnh nhân bạch biến được khuyến cáo tương tự như người bình thường. Ở những bệnh nhân điều trị bằng liệu pháp ánh sáng, cần tránh nắng tích cực, hạn chế tiếp xúc với tia UV từ môi trường và nên được kiểm tra da định kì.

Bệnh bạch biến ,thuốc chữa bệnh bạch biến, chữa bạch biến ở đâu ,điều trị bệnh bạch biến ,bạch biến có lây không, bệnh bạch biến có di truyền không, các phương pháp điều trị bệnh bạch biến, đông y điều trị bạch biến, tại sao bị mắc bạch biến, cách phòng tránh bệnh bạch biến, bệnh bạch biến có phải ăn kiêng không, dinh dưỡng cho người mắc bệnh bạch biến, cách chữa bệnh bạch biến, thuốc chống lan bạch biến, thuốc chữa bệnh bạch biến tốt nhất, chữa khỏi bệnh bạch biến, ghép da điều trị bệnh bạch biến, chiếu tia Uvb điều trị bệnh bạch biến, khám bệnh bạch biến ở đâu,ghép da điều trị bạch biến, nguyên nhân mắc bệnh bạch biến, cách phòng chống bệnh bạch biến, dấu hiệu bệnh bạch biến, các thể bệnh bạch biến.,chiếu  đèn điều trị bạch biến,ghép tế bào điều trị bạch biến,cấy ghéo tế bào tự thân điều trị bạch biến

 

Tin Liên Quan